Thích ứng và giảm nhẹ Ngư nghiệp và biến đổi khí hậu

Các tác động của biến đổi khí hậu có thể được giải quyết qua thích nghi và giảm nhẹ. Chi phí và lợi ích của thích ứng về cơ bản là ở địa phương hoặc quốc gia, trong khi đó chi phí của giảm thiểu về cơ bản là ở quốc gia trong khi lợi ích thì cho toàn cầu. Một số hoạt động tạo ra cả lợi ích về giảm nhẹ và thích nghi, ví dụ như việc phục hồi rừng ngập mặn có thể bảo vệ bờ biển khỏi bị xói mòn và cung cấp nơi sinh sản cho cá, đồng thời cũng cô lập carbon.

Thích ứng

Một số cơ quan quốc tế, bao gồm cả Ngân hàng thế Giới và Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên Hiệp Quốc[22] có những chương trình để giúp các quốc gia và cộng đồng thích ứng với hiện tượng ấm lên toàn cầu, ví dụ như bằng các chính sách phát triển nhằm nâng cao khả năng phục hồi[23] tài nguyên thiên nhiên, thông qua các đánh giá rủi ro và tính chất dễ bị tổn thương, bằng cách tăng sự nhận thức[24] về các tác động của biến đổi khí hậu và tăng cường những cơ quan quan trọng như dự báo thời tiết và hệ thống cảnh báo sớm.[25] Báo cáo Phát triển Thế giới năm 2010 - Phát triển và Biến đổi Khí hậu, Chương 3[26] cho thấy rằng giảm hiện tượng chứa quá mức trong các đội đánh cá và xây dựng lại các quần thể cá đều có thể nâng cao khả năng phục hồi từ biến đổi khí hậu và làm tăng thu nhập kinh tế từ đánh bắt thủy sản biển khoảng 50 tỷ USD mỗi năm, đồng thời cũng làm giảm lượng khí nhà kính gây ra bởi tàu đánh cá. Do đó, loại bỏ trợ cấp nhiên liệu cho việc đánh cá có thể có lợi kép khi giảm thiểu cả việc phát thải cả việc đánh bắt quá mức.

Đầu tư vào nuôi trồng thủy hải sản bền vững[27] có thể làm vật đệm cho việc sử dụng nước trong nông nghiệp trong khi sản xuất thực phẩm và đa dạng hóa các hoạt động kinh tế. Nhiên liệu sinh học bằng tảo biển cũng cho thấy tiềm năng vì tảo biển có thể sản xuất ra lượng dầu trên mỗi mẫu anh nhiều hơn từ 15 đến 300 lần so với hoa màu thông thường, ví dụ như hạt nho, đậu tương hoặc mè, và tảo biện không yêu cầu nguồn nước ngọt khan hiếm. Các chương trình như GEF-Coral Reef Targeted Research được tài trợ đã cung cấp những lời khuyên về việc xây dựng khả năng phục hồi và một hệ sinh thái rạn san hô lưu trữ,[28] trong khi đó sáu quốc gia Thái Bình Dương gần đây đã đạt được một thỏa thuận chính thức trong việc bảo vệ các rạn san hộ tại một điểm nóng đa dạng sinh học – Tam giác San hô.[29]

Vách đá Trắng Dover

Giảm nhẹ

Đại dương đã lấy đi 50%[30] lượng CO2 có nguồn gốc từ con người, vậy là các đại dương đã hấp thụ nhiều tác động của biến đổi khí hậu. Nổi tiếng Vách đá Trắng Dover minh họa cách mà đại dương bắt giữ và chôn vùi carbon. Những vách đá vôi, được hình thành từ những bộ xương của biển sinh vật phù du gọi là coccoliths. Tương tự, dầu mỏ, hình là do phần lớn để biển và thủy sinh vật phù du nữa minh họa vai trò quan trọng của đại dương trong bon.

Chính xác bằng cách nào mà đại dương giữ lại và chôn vùi CO2 là chủ đề của những cuộc nghiên cứu liên tục[31] bởi các nhà khoa học trên khắp thế giới, ví dụ như Dự án Carboocean.[32] Mức hiện tại của khí nhà kính tức là độ axít đại dương sẽ tiếp tục tăng lên và hệ sinh thái thủy sinh sẽ tiếp tục bị thoái hóa và biến đổi. Có những cơ chế phản hồi có liên quan ở đây. Ví dụ như, vùng nước ấm hơn có khả năng hấp thụ ít CO2 hơn, vậy nên khi nhiệt độ đại dương tăng lên, một số CO2 đã bị hòa tan sẽ bị thải trở lại khí quyển. Hiện tượng nóng lên cũng đồng thời làm giảm lượng dinh dưỡng trong vùng biển khơi trung (sâu khoảng 200 tới 1000 m). Điều này ngược lại lại giới hạn độ tăng trưởng của tảo silic có lợi cho những thực vật phù du nhỏ hơn, thứ là máy bơm sinh học cacbon chất lượng thấp hơn. Điều này hạn chế khả năng cô lập cácbon của đại dương khi nó ấm.[33] Điều đã rõ ràng là, một hệ sinh thái ven biển và đại dương khỏe mạnh là hết sức cần thiết để duy trì vai trò cấp thiết của bồn chứa cacbon đại dương, như đã được trình bày, ví dụ như, trong bản đánh giá Blue Carbon[34] được trình bày bởi UNEP và báo cáo về bồn chứa cacbon ven biển[35] của IUCN và những bằng chứng ngày càng nhiều về vai trò của sinh khối cá[36] trong việc vận chuyển cacbon từ mặt nước xuống sâu dưới đại dương.

Trong khi những công cụ tài chính cacbon khác bao gồm cả việc phục hồi rừng (REDD) và sản xuất năng lượng sạch (mua bán phát thải cacbon), một số lại nêu ra sự cần thiết của hoạt động tài trợ một đại dương và hệ sinh thái biển khỏe mạnh mặc dù những thứ này là cần thiết cho việc liên tục hút khí CO2 và khí nhà kính. Nền tảng khoa học cho việc làm màu mỡ đại dương – nhằm sản xuất ra nhiều thực vật phù du hơn để tăng khả năng hấp thu CO2 – đã bị thách thức, và những đề xuất chôn CO2 sâu xuống lòng đại dương đã gặp phải chỉ trích từ những nhà hoạt động vì môi trường. Những cuộc tranh luận xoay quanh vấn đề này đã nhấn mạnh sự cần thiết phải tăng cường hiểu biến khoa học về cách mà đại dương cô lập cacbon.

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Ngư nghiệp và biến đổi khí hậu ftp://ftp.fao.org/docrep/fao/005/y2787e/y2787e00.p... ftp://ftp.fao.org/docrep/fao/010/a1115e/a1115e00.p... ftp://ftp.fao.org/docrep/fao/010/i0203e/i0203e00.p... ftp://ftp.fao.org/docrep/fao/011/i0250e/i0250e01.p... http://www.ipcc.ch/pdf/assessment-report/ar4/wg1/a... http://www.nature.com/climate/2009/0906/full/clima... http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/0705590... http://adsabs.harvard.edu/abs/2007PNAS..10419709B http://adsabs.harvard.edu/abs/2007Sci...316..567B http://adsabs.harvard.edu/abs/2009GBioC..23.1005G